Quy định về thuế- góc nhìn logic

Với những thông tin thu thập được trong quá trình làm dịch vụ kế toán, người viết xin dẫn ra 9 trường hợp vi phạm tính logic trong những quy định về thuế. Mục đích ở đây là để phân tích vài khía cạnh minh họa các quy luật cơ bản của tư duy logic.

 Thù lao:

Giai đoạn trước khi có Luật quản lý thuế:

Điều 5 Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 35/2001/PL-UBTVQH10:

“Cá nhân thuộc diện nộp thuế thu nhập có nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ theo quy định của Pháp lệnh này.”

Điểm 2.1 Phần IV thông tư BTC 81/2004/TT-BTC ngày  13  tháng  8  năm 2004:

“ Cơ quan chi trả thu nhập được hưởng khoản tiền thù lao tính trên số tiền thuế thu nhập đã khấu trừ trước khi nộp vào NSNN để dùng vào mục đích trang trải các chi phí cho việc tổ chức thu nộp thuế và khen thưởng cho cá nhân có thành tích trong việc tổ chức thu nộp theo tỷ lệ như sau:

+ 0,5% (năm phần ngàn) đối với số thuế thu được từ thu nhập thường xuyên.

+ 1% (một phần trăm) đối với số thuế thu được từ khoản thu nhập không thường xuyên.”

Giai đoạn sau khi có Luật quản lý thuế:

Điều 2 Luật thuế TNCN 04/2007/QH12:

“Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân…”

Theo công văn của Bộ tài chính 5229/ BTC-TCT ngày 7  tháng 5  năm 2008:

“…tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế (bao gồm cả tổ chức, cá nhân giao đại lý có trách nhiệm khấu trừ thuế TNDN của đại lý là hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh) là người nộp thuế phải có trách nhiệm nộp đủ 100% số thuế khấu trừ vào NSNN và không được hưởng thù lao trích trước khi nộp thuế.”

Cả 2 giai đoạn đều khẳng định trách nhiệm nộp thuế thuộc về cá nhân. Tuy nhiên cùng một hiện tượng nhưng quy định khác nhau.

Dưới góc độ nhìn nhận “Luật đồng nhất” của tư duy logic hình thức thì quy định trên chưa được đảm bảo. Bởi vì: Mọi tư tưởng phản ánh cùng một đối tượng trong cùng một quan hệ phải được đồng nhất; biện chứng của tư tưởng chẳng qua chỉ là sự phản ảnh biện chứng của sự vật hiện tượng.

‚ Phạt nộp hồ sơ thuế quá hạn

Điều 9 Nghị định 98/2007/NĐ-CP quy định xử phạt đối với hành vi chậm nộp hồ sơ khai thuế. Tại đây không đề cập thời hạn trên 90 ngày, nó được quy định Điều 14. Ở điều này người ta xử sự như hành vi trốn thuế, gian lận thuế: Phạt tiền 1 lần tính trên số thuế trốn, số thuế gian lận.

Như vậy trong nhiều trường hợp doanh nghiệp thành lập nhưng chưa họat động kinh doanh, chưa phát sinh doanh thu, qua 1 năm chưa khai báo thuế sẽ bị truy thu thuế TNDN và phạt như sau:

0 x 25% x (100% + 100%) = 0 đồng

Xét về ma trận toán thì rõ ràng các phần tử chưa được liệt kê đầy đủ.

Xét về logic, Người ta đã đồng nhất hóa 2 tư tưởng khác nhau. Vì số thuế phát sinh có thể âm/ dương hoặc bằng 0, không thể nào xem luôn là số dương và lớn hơn 0 được.

Lỗi logic này đã được khắc phục ở Khoản 2 Điều 1 Nghị định 13/2009/NĐ-CP, đó là: “Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với các hành vi Nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định trên 90 ngày nhưng không phát sinh số thuế phải nộp.”

Với hành vi nêu trên thì tối thiểu phải chịu phạt là 500 ngàn đồng, chứ không phải 0 đồng kỳ lạ như vậy được.

ƒ Tương ứng vốn thiếu

Theo hướng dẫn thông tư BTC 130/2008 và 123/2012 về chi phí không được trừ khi tính thuế TNDN:

“Chi trả lãi tiền vay để góp vốn điều lệ hoặc chi trả lãi tiền vay tương ứng với phần vốn điều lệ đã đăng ký còn thiếu theo tiến độ góp vốn ghi trong điều lệ của doanh nghiệp kể cả trường hợp doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh.”

Điều này chưa tuân thủ “Luật bài trung” của tư duy logic. Theo luật này, với cùng một đối tượng, trong cùng một quan hệ mà có hai phán đoán phủ định nhau, thì chúng không thể cùng đúng hoặc cùng sai, một trong hai phán đoán phải đúng, phán đoán kia sai, không có cái thứ ba.

Tuy nhiên thực tế áp dụng, cơ quan thuế đã vận dụng khá tùy tiện, cho ra nhiều kết quả phán đoán khác nhau.

Phán đoán thứ 1:

Phần vốn còn thiếu là tỷ lệ phần trăm của vốn thiếu/ vốn điều lệ, lấy tỷ lệ phần trăm này làm hệ số góc không đổi, vậy hàm số chi phí vay sẽ có biên độ dao động rất lớn khi có thay đổi vốn vay trong năm. Xem xét tại thời điểm cuối năm:

[số vốn thiếu]= [số đăng ký]- [số đã góp]

[tỷ lệ vốn thiếu]= [số vốn thiếu]/ [số vốn đăng ký]

[chi phí lãi đi vay không được trừ] = [tỷ lệ vốn thiếu] x [tổng lãi tiền vay phát sinh trong năm]

Kết quả cho thấy:

Khi vốn thiếu ³ Vốn vay Þ Loại trừ một phần chi phí vay

Khi vốn thiếu  < Vốn vay Þ Loại trừ chi phí vay rất lớn (phán đoán này khó chấp nhận)

Phán đoán thứ 2:

Vốn thiếu thường được bù đắp bởi khoản đi vay, nhà nước không khuyến khích, công cụ nhà nước sẽ điều tiết, bằng cách: Không chấp nhận chi phí sử dụng vốn (nguồn tài trợ) của khoản này khi tính thu nhập chịu thuế.

Hàm biểu diễn chi phí sẽ là hàm đồng biến nhưng hệ số góc không đổi (phần vốn thiếu). Loại trừ chi phí theo cách này sẽ rất phức tạp, vì trong kỳ các khoản vay phát sinh tăng giảm biến động liên tục, phải được xem xét và tính toán theo từng lần phát sinh lãi đi vay.

[số vốn thiếu]= [số đăng ký]- [số đã góp]

Khi vốn thiếu ³ Vốn vay Þ Loại trừ chi phí vay toàn phần

Khi vốn thiếu < Vốn vay Þ Loại trừ chi phí một phần trong tổng chi phí vay phát sinh cả năm.

Phán đoán thứ 3:

Tại thời điểm phát sinh khoản đi vay, người ta xem xét:

[số vốn thiếu]= [số đăng ký]- [số đã góp]

[tỷ lệ vốn thiếu]= [số vốn thiếu]/ [số đăng ký]

[chi phí lãi đi vay không được trừ]= S [lãi đi vay từng lần] x [tỷ lệ vốn thiếu từng thời điểm]

Phán đoán thứ 4:

Tại thời điểm phát sinh khoản đi vay, người ta xem xét:

[số vốn thiếu]= [số đăng ký]- [số đã góp]

Nếu [số vốn thiếu] ³ [vốn đi vay] Þ Loại trừ chi phí vay toàn phần lũy kế từ đầu năm cho đến khi có sự thay đổi vốn góp tiếp theo

Nếu [số vốn thiếu] < [Vốn vay] Þ so sánh để xử lý khoản chênh lệch này:

[chênh lệch]= [vốn vay]- [vốn thiếu]

[chi phí lãi đi vay được trừ]= [lãi đi vay phát sinh do khoản chênh lệch này]

„ Chế độ thai sản

Ngày 19/06/2012 Tổng cục thuế có ban hành công văn 2139/TCT-TNCN, hướng dẫn về thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Trong đó khẳng định “Khoản tiền lương hưởng chế độ thai sản do bảo hiểm xã hội chi trả thay lương phải tính vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân.”

Ngày 24/9/2012 Tổng cục thuế lại ban hành công văn 3367/TCT-TNCN, hưởng dẫn trái ngược: “Mức hưởng chế độ thai sản mà người lao động nhận được từ quỹ BHXH được trừ khi xác định thu nhập chịu thuê TNCN”.

Như vậy, trong khoảng thời gian 3 tháng, cùng 1 cơ quan ban hành, cùng 1 đối tượng điều chỉnh, cùng 1 quan hệ, cùng hoàn cảnh lịch sử, nhưng lại có 2 quy định khác nhau. Điều này vi phạm “Luật phi mâu thuẫn” của tư duy logic.

… Thời hạn

Vấn đề 1: Thời hạn đối với người nộp thuế (nộp hồ sơ, nộp tiền thuế) được tính theo ngày tự nhiên (thời gian thực); nhưng trách nhiệm đối với phía cơ quan thuế (viên chức thuế) thì được tính theo ngày làm việc (tức là được trừ những ngày nghỉ lễ).

Cùng ứng xử về 1 hồ sơ thuế, nhưng nghĩa vụ của mỗi bên về thời hạn lại khác nhau. Suy ra số ngày làm việc của người nộp thuế lớn hơn số ngày làm việc của công chức thuế. Luật đồng nhất nên được xem xét lại ở đây.

Vấn đề 2: Thời hạn nộp hồ sơ thuế năm: Khoản 4.3.2 Mục III Thông tư 81/2004/TT-BTC:

“Thời hạn nộp tờ khai quyết toán thuế năm chậm nhất vào ngày 28/2 năm sau”

Điểm 3 Khoản 1 Mục IV Phần D Thông tư 128/2003/TT-BTC:

“…phải nộp tờ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý trong thời hạn 90 ngày…”

Như vậy, cùng là tờ khai quyết toán năm, cùng giai đoạn lịch sử về quản lý thuế nhưng có thời hạn khác nhau. Điều này được khắc phục từ khi Luật quản lý thuế ra đời và có hiệu lực.

† Thanh toán qua ngân hàng

Điểm b Khoản 2 Điều 12 Luật Thuế GTGT số 13/2008/QH12 quy định điều kiện chứng từ thanh toán qua ngân hàng để khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào:

“Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng”.

Điểm 1.3.b Mục III Phần B Thông tư 129/2008/TT-BTC:

Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào: Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào. Thanh toán qua ngân hàng là việc chuyển tiền từ tài khoản của bên nhập khẩu sang tài khoản mang tên bên xuất khẩu…

Khoản 15 Điều 4 Chương I Luật các tổ chức tín dụng:

“Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, uỷ nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.”

Khái niệm là hình thức tư duy phản ánh sự vật chứ không phải chính sự vật ấy, không phải là sự mô tả thuần túy về sự vật, cũng không phải là hình ảnh của sự vật.

Khái niệm về sự vật/ hiện tượng nào đó chính là những hiểu biết của con người về những thuộc tính bản chất của sự vật/ hiện tượng đó.

Nội hàm của khái niệm là tập hợp những thuộc tính bản chất của sự vật/ hiện tượng được phản ánh trong khái niệm.

“thanh toán qua ngân hàng” được quy định trong 2 luật nêu trên có nội hàm không giống nhau, do đó việc giải thích từ ngữ của 2 luật cũng khác nhau. Chính điều không đồng nhất này đã khiến cho nhiều người bức xúc.

Để khắc phục lỗi logic trên, Bộ tài chính đã ban hành công văn 10220/BTC-TCT ngày 20 tháng 7 năm 2009.

‡ Tỷ lệ xuất khẩu

Mục I và II của phụ lục I Nghị định 24/2000/NĐ-CP:

“Sản xuất, chế biến xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở lên;

Sản xuất, chế biến xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên.”

Mục III Danh mục A Nghị định 164/2003/NĐ-CP:

“Dự án sản xuất, kinh doanh hàng hoá có mức xuất khẩu đạt giá trị trên 50% tổng giá trị hàng hoá sản xuất, kinh doanh của dự án trong năm tài chính.”

Vậy “tỷ lệ xuất khẩu” là một trong những điều kiện để được ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng nó lại được xác định theo 2 tiêu chí khác nhau, đó là số lượng sản phẩm và

giá trị hàng hóa. Đây cũng là điều có thể xem chưa logic lắm, nhưng không “đá” nhau giữa 2 quy định này vì thời hiệu văn bản khác nhau.

ˆ Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế

Điểm 2.2 Mục I Phần B Thông tư 84/2008/TT-BTC:

“Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế.”

Công văn cục thuế Bình Dương số 66 ngày 25/7/2012 còn bổ sung: … thời điểm người lao động nhận được các khoản thu nhập.

Như vậy “trả” và “nhận” có thể rơi vào 2 ngày khác nhau, 2 tháng khác nhau, thậm chí 2 năm khác nhau.

Một tiêu chí hoàn toàn trái ngược bên trên khi xác định thời điểm- đó là căn cứ nguồn gốc:

Thông tư BTC 160/2009, tại Khoản 2 Điều 2 có câu “…không phân biệt thời điểm chi trả”.

Công văn của Tổng Cục Thuế 451/TCT-TNCN ngày 8/2/2010, hướng dẫn quyết toán thuế thu nhập cá nhân năm 2009 thì có nhiều khoản căn cứ vào nguồn gốc thu nhập để xác định thời điểm (có thể do xử lý hậu quả của quá trình chuyển đổi luật mới cho nên chưa logic trong quy định).

‰ Hình thức và nội dung

Thông tư BTC 60/2007, ban hành 132 mẫu biểu.

Thông tư BTC 28/2011, tăng cường thêm, tổng cộng là 172 mẫu biểu.

Các mẫu này dùng để chứa đựng nội dung của hồ sơ thuế.

Phần mềm HTKK thuế làm nhiệm vụ chuyển tải các mẫu nêu trên để hỗ trợ doanh nghiệp khai thuế qua mạng internet.

Có điều trớ trêu là, Doanh nghiệp khai bằng giấy thì cơ quan thuế không nhận (do không có mã vạch), mà khai qua mạng thì lại không đủ mẫu cần dùng, hoặc có nhưng bị lỗi. Ngoài ra, trong một số tình huống theo quy định của chính phủ trong một giai đoạn nào đó có sự điều tiết chính sách thuế; HTKK chưa chuẩn bị kịp, làm cho việc áp dụng của doanh nghiệp càng trở nên bị động… Đây cũng là vấn đề logic mà những người có liên quan khi đặt ra quy định cần quan tâm.

(Trương Thanh Giảng, 12/11/2012)

Để lại một bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *