Bình luận về giải thích từ ngữ thuế TNCN

Ngày 19 tháng 06 năm 2012 Tổng cục thuế có ban hành công văn 2139/TCT-TNCN, hướng dẫn về thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Trong đó khẳng định “Khoản tiền lương hưởng chế độ thai sản do bảo hiểm xã hội chi trả thay lương phải tính vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân.”

1) Có 2 quan điểm sơ khai về việc này:

Thứ nhất: Xem “trợ cấp” đồng nghĩa với “lương”, cho rằng đây là khoản tiền BHXH trả thay lương nên có tính chất như tiền lương và phải chịu thuế TNCN, tiền lương hưởng chế độ thai sản do BHXH chi trả thay lương.

Thứ hai: “Trợ cấp” khác hoàn toàn với “lương”

Trong 4 tháng nghỉ thai sản, người lao động không tạo ra sản phẩm, nhưng cơ quan vẫn trả lương bằng tiền trợ cấp BHXH, tiền đó chính là tiền bảo hiểm họ đóng trong quá trình làm việc.

Trong thời gian nghỉ việc, người lao động làm gì có lương, hơn nữa khoản chi này ngoài phạm vi của hợp đồng lao động thỏa thuận về mức chi. Người lao động nhận được không phải từ người sử dụng lao động, nên không thể xem là lương.

2) Mâu thuẫn trong hướng dẫn:

Ngày 7/5/2009 Tổng cục Thuế ban hành công văn 1697/TCT-TNCN, có nội dung hướng dẫn ngược lại hoàn toàn với CV 2139: “Tất cả các khoản thu nhập mà người lao động nhận được từ bảo hiểm xã hội đều được trừ trước khi xác định thu nhập chịu thuế TNCN từ tiền lương, tiền công”

Nếu CV 2139 có hiệu lực áp dụng thì nó đi ngược lại tinh thần của Luật lao động, đi ngược tinh thần của luật thuế TNDN về ưu tiên lao động nữ.

3) Căn cứ pháp lý (Luật liên quan):

– Điểm b, khoản 2, điều 3 của Luật Thuế TNCN năm 2007, hướng dẫn về Thu nhập từ tiền lương, tiền công:

“Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp… một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội chi trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội”

– Khoản 1 Điều 3 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006:

“Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”. Như vậy, đương nhiên “thai sản” là một trong những chế độ BHXH bắt buộc, không phải là tiền lương, tiền công hay các khoản có tính chất tiền lương, từ đó suy ra nó không phải chịu thuế TNCN.

– Khoản 2 Điều 6 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, quy định về Chính sách của Nhà nước đối với bảo hiểm xã hội:

“Lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội được miễn thuế”. Từ đây khẳng định chế độ thai sản là một trong các loại trợ cấp BHXH nên đương nhiên là không phải chịu thuế TNCN.

– Khoản 1 Điều 144 Luật lao động năm 2002 sửa đổi: “Trong thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại Điều 114 của Bộ luật này, người lao động nữ đã đóng bảo hiểm xã hội được trợ cấp bảo hiểm xã hội bằng 100% tiền lương và được trợ cấp thêm một tháng lương.”

4) Về mặt câu chữ:

Cụm từ “Khoản tiền lương hưởng chế độ thai sản do bảo hiểm xã hội chi trả thay lương…” này mang tính gượng ép, chưa chặt chẽ (từ 2 quy định: trong luật thuế TNCN, luật BHXH). BHXH chi trả có mục đích hẳn hoi, không hề có chuyện trả thay lương, nó được chi từ 3 quỹ thành phần, đó là: Quỹ ốm đau và thai sản; Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Quỹ hưu trí và tử tuất.

4) Về tính hiệu lực:

Luật thuế TNCN có hiệu lực từ đầu năm 2009, vậy trong trường hợp này (Tổng cục Thuế khẳng định vẫn phải tính thuế với khoản trợ cấp) thì thời gian thực hiện tính từ mốc nào và có xử lý hồi tố hay không?…

Kết luận: Có thể Tổng cục Thuế sẽ đính chính cho rõ hơn CV 2139

(Trương Thanh Giảng, 23/9/2012, sau khi xem công văn 2139/2012)

Để lại một bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *