BÀN VỀ HÀNH NGHỀ KẾ TOÁN

Ngày 27/6/2007, Bộ Tài Chính ban hành Thông tư số 72/2007/TT-BTC “Hướng dẫn việc đăng ký và quản lý hành nghề kế toán”. Tại khoản 1.2 mục 1 của Thông tư quy định: “Doanh nghiệp dịch vụ kế toán, cá nhân kinh doanh dịch vụ kế toán chỉ được quyền cung ứng dịch vụ kế toán sau khi đã đăng ký hành nghề kế toán và có xác nhận của Hội nghề nghiệp…”.

“Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành nghề kinh doanh có điều kiện” (quy định tại khoản 1 điều 9 Luật DN năm 2005). Hướng dẫn cho Luật DN, tại khoản 1 Điều 41 Nghị định số 129/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004 của Chính phủ: “Doanh nghiệp dịch vụ kế toán được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật với một trong ba hình thức: Công ty TNHH, Công ty hợp danh và DN tư nhân. Để thành lập DN dịch vụ kế toán phải có ít nhất hai người có chứng chỉ hành nghề kế toán, trong đó có một trong những người quản lý DN dịch vụ kế toán phải có chứng chỉ hành nghề kế toán…”.

Luật kế toán, Luật doanh nghiệp, cũng như các nghị định hướng dẫn 2 Luật này không có một quy định nào về việc “Doanh nghiệp chỉ được quyền cung ứng dịch vụ kế toán sau khi đã đăng ký hành nghề…” như quy định trong Thông tư 72. Ở đây, thông tư hướng dẫn đã tạo thêm một loại “Giấy phép con” thông qua đòi hỏi phải “Đăng ký hành nghề”(?)

Ngoài ra, tại mục 2.7 Thông tư 72 quy định hết sức ngặt nghèo: “Người không có tên trong danh sách đăng ký hành nghề kế toán được Hội nghề nghiệp xác nhận thì không được ký vào sổ kế toán (đối với dịch vụ làm kế toán), không được ký báo cáo tài chính (đối với dịch vụ lập báo cáo tài chính, dịch vụ làm kế toán trưởng) và không được ký báo cáo kết quả dịch vụ kế toán”.

Tại tiết b, khoản 2.3, mục 2 quy định về điều kiện: “Có ít nhất 2 người có Chứng chỉ hành nghề kế toán hoặc Chứng chỉ kiểm toán viên do Bộ Tài chính cấp, trong đó, Giám đốc DN phải là người có Chứng chỉ hành nghề kế toán hoặc Chứng chỉ kiểm toán viên từ 2 năm trở lên”. Điều này hình như thiếu căn cứ pháp lý và gây rất khó khăn cho các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ kế toán. Hơn nữa, quy định nêu trên còn vô lý vì không một tài liệu nào chứng minh rằng, để làm được giám đốc phải có chứng chỉ hành nghề và ngược lại, cứ có chứng chỉ hành nghề là đương nhiên làm được giám đốc doanh nghiệp.

Luật về Hội cho đến nay chưa được Quốc hội thông qua, Nghị định của Chính phủ về thành lập và hoạt động của Hội nghề nghiệp hoàn toàn không có điều khoản nào cho phép Hội được cơ quan quản lý nhà nước uỷ quyền kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp. Việc Bộ Tài chính uỷ quyền cho Hội nghề nghiệp thực hiện đăng ký hành nghề đối với các doanh nghiệp và cá nhân làm dịch vụ kế toán e rằng chưa đúng tinh thần pháp luật.

Cách thức mà Hội triển khai về kiểm tra, giám sát chất lượng dịch vụ kế toán hiện nay chỉ góp phần ngăn cản các cá nhân và doanh nghiệp tham gia thị trường mà thôi. Hiện nay chỉ có 25 doanh nghiệp đăng ký hành nghề kế toán trãi dài 63 tỉnh thành, hiện tượng này gây mất cân đối cung cầu về kinh tế và dễ xảy ra tình trạng tiêu cực trong xã hội.

Thêm nữa, nhìn dưới góc độ pháp luật, đây là một tiền lệ không hay và khó chấp nhận, Thông tư không thể “to” hơn Nghị định và Luật được.

 Trương Thanh Giảng

(tháng 6/2009)

Để lại một bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *