Lược qua lý thuyết và thực tiễn:
1) Trong các văn bản quy định, thường câu cuối có cụm từ “theo quy định khác”, đây là câu mang tính mở, sẽ được điền trong tương lai, hoặc được tham chiếu đến nơi khác, hoặc hiện tại người soạn chưa nghĩ ra. Còn từ “hợp lý” thì không có định lượng hoặc mô tả cụ thể.
Thông thường, Hợp đồng dân sự thì được điều chỉnh bởi Luật dân sự; còn Hợp đồng thương mại thì theo Luật thương mại. Tuy nhiên thực tế, những thứ cần thì không được ghi, còn ngược lại những thứ thừa thải thì ghi đầy kín trên những trang hợp đồng.
2) Hợp đồng là sự thỏa thuận các bên- thể hiện tự do ý chí của mình. Thực tế, một số lĩnh vực chưa thể hiện tự do ý chí của bên mua- hợp đồng mẫu (bất động sản, bảo hiểm, điện, điện thoại).
3) Trong Luật dân sự, khi phân loại hợp đồng có quy định “Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ; Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính”. Như vậy, sự tham chiếu này hình như khó xác định điểm gốc, không chặt chẽ về mặt lý luận.
4) Còn Luật thương mại, khi giới hạn phạm vi điều chỉnh có quy định rằng « Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này ». Như vậy, về mặt lý thuyết, chúng ta được lựa chọn Luật thương mại hoặc Luật dân sự để giao dịch.
5) Về tính hiệu lực của văn bản, theo lý thuyết tỷ lệ thuận với cấp thẩm quyền (cấp càng cao thì hiệu lực càng cao). Thực tế, thì tỷ lệ nghịch (người nào/ cấp nào gần nhất sẽ có quyền lực cao nhất), ngoài ra còn chồng chéo giữa các quy định và các cấp thẩm quyền.
6) Doanh nghiệp hoạt động ngoài ngành nghề thì các hợp đồng vẫn có hiệu lực bình thường. Thực tế, một số cơ quan xem như hợp đồng bị vô hiệu.
7) Vai trò của thẩm phán rất lớn để giải thích sự hợp lý và công bằng, tuy nhiên trong hầu hết các trường hợp chỉ có tham chiếu Luật mà không giải thích. Thực tế, Khi áp dụng quy định bị hạn chế rất nhiều bởi rào cản vô hình (chẳng hạn như quyền lực, tiền bạc, quan hệ).
8) Trong nội dung ôn thi luôn có Luật canh tranh và Luật phá sản, thực tế nó chưa đi vào cuộc sống ở xã hội chúng ta, không thiết thực đối với nghề kế toán- kiểm toán. Bởi từ khi ra đời năm 2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2005 cho đến nay, không phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ trong xã hội. Tương tự Luật phá sản cũng thế, chưa phát huy tính tích cực trong nền kinh tế.
Những điểm cần lưu ý khi thi:
1) …Tuy nhiên người hướng dẫn ôn thi thì bảo rằng, hãy xem người chấm bài như là người mù chữ vậy (?), để cho có đầu có đuôi, không bị quên, không bị lẫn lộn, để có trât tự và logic trong một bài làm.
Do đó, cách làm bài như sau: phải ghi lại hết nội dung của đề thi, sau đó đi vào định nghĩa hoặc giải thích từ ngữ nội dung đó, cuối cùng mới là câu trả lời.
Theo quan điểm cá nhân, không đồng tình với cách này lắm, Bởi lẽ:
- Thi là phương tiện để kiểm tra kiến thức, giúp cho cơ quan quản lý chuyên môn có cơ sở xác nhận đủ điều kiện hành nghề. Nó không phải bài thuyết trình, hay diễn đàn, hay giáo trình giảng dạy;
- Người mù không thể dẫn đường cho người có đôi mắt sáng được;
- Tuỳ mỗi người có ngôn ngữ diễn đạt riêng, có cách biện luận riêng, sao cho đúng lẽ thường tình, đúng tinh thần luật định, đảm bảo công lý và được nhiều người thừa nhận;
2) Đặt người thi vào trong tình thế dễ sai lầm, nếu nghiệp vụ diễn ra trước thời điểm Luật dân sự 2005 có hiệu lực; chúng ta phải xem xét cả 3 nhóm hợp đồng: Hợp đồng kinh tế (theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989), Hợp đồng dân sự (theo Luật dân sự 1995), Hợp đồng thương mại (theo Luật thương mại năm 1997) khi làm bài. Tuy nhiên hiện tại không còn nhóm hợp đồng kinh tế nữa.
Nội dung chi tiết các tình huống còn xa lạ với thực tế, các tình tiết không có vai trò quyết định cho câu hỏi và trả lời, nó chỉ mang tính minh hoạ.
3) Theo Luật dân sự có các chủ thể có thể tham gia hợp đồng: Cá nhân (cá nhân không có đăng ký KD, DNTN); Cty TNHH 1 TV; Cty TNHH 2 TV; Cty CP; Cty hợp danh; Hợp tác xã; Tổ hợp tác; Hộ gia đình.
Trong một tình huống, những dữ kiện có thể thoả mãn đồng thời nhiều loại hình doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế, do đó về nguyên tắc người làm bài được chọn một trong các loại hình và giải thích sự lựa chọn sao cho thuyết phục. Tuy nhiên, trong nội dung giới hạn của môn thi thì chỉ cần xoay quanh các chủ thể kinh doanh trong Luật doanh nghiệp 2005 là đủ.
4) Trong nhiều câu hỏi lý thuyết có nội dung về pháp luật cạnh tranh. Còn Luật phá sản chỉ được lồng ghép phần nhỏ của bài tập.
5) Phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng khi làm bài tập, nhất là khi liên quan đến góp vốn.
6) Phân biệt trách nhiệm hữu hạn, trách nhiệm vô hạn và trách nhiệm hữu hạn theo phần.
(Trương Thanh Giảng, 10/2010)