Với tư cách là người làm dịch vụ kế toán, tôi có thể khái quát cho các đồng nghiệp có cái nhìn “thiện cảm” hơn đối với khách hàng của mình hiện tại, tránh sự hiểu lầm giữa các bộ phận do thiếu thông tin…
Trong tác nghiệp để hoàn thành dịch vụ còn có một số công đoạn hoặc bộ phận tham gia, tuy nhiên trong giới hạn bài này, chỉ giới thiệu vài bộ phận tiêu biểu như sau:
Hãy nhìn, Bộ phận làm dịch vụ kế toán
Người làm dịch vụ kế toán thường lấy chính sách thuế làm cơ sở nội dung của dịch vụ- mặc dù nó chỉ là một tài khoản chi phí thuế hiện hành trong cả hệ thống tài khoản, người ta không đặt nặng thậm chí lãng quên đi chế độ và chuẩn mực kế toán. Bởi lẽ, có nhiều khách hàng hầu như chỉ quan tâm đến các báo cáo cuối cùng để nộp cho cơ quan thuế, trong đó chứa đựng thông tin số thuế phải nộp bao nhiêu; không sử dụng số liệu kế toán để phân tích định hướng hoặc đặt ra kế hoạch; ngòai ra khách hàng còn quan tâm hoàn thuế GTGT. Đó cũng là 1 trong những nguyên nhân khiến nhân viên ngộ nhận khi làm việc với khách hàng, sai sót SSKT, thậm chí sai do cố tình của người làm kế toán (tự cho rằng không quan trọng, không ai kiểm tra, không ai quan tâm…).
Dẫu vậy, công việc kế toán làm cho người ta khó mà yên ổn, phải đối mặt với nhiều áp lực, cụ thể:
– Áp lực ngắn hạn và dài hạn: trách nhiệm hiện tại và cả tương lai, sản phẩm gắn liền với tác giả, làm việc phải có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp;
– Áp lực từ nhiều phía: trước mắt là phải kịp tiến độ cho khách hàng, kịp tiến độ để báo cáo công việc cho Cty, đảm bảo ít/ không có sai sót khi báo cáo thuế, giải trình thuế (ngoài ra còn bị bắt bẻ…), giải trình cho kiểm toán;
– Áp lực từ tư tưởng: có thể mỗi đối tượng sử dụng báo cáo có tư tưởng chủ đạo và quan điểm riêng, đương nhiên không nhất quán, vậy làm sao giải trình cho ổn thỏa đây.
Hãy nhìn, Bộ phận làm dịch vụ kiểm toán
Người làm dịch vụ kiểm toán thường lấy chuẩn mực kế toán làm cơ sở nội dung của dịch vụ. Cố công tìm kiếm những thông tin cần điều chỉnh để đảm bảo nội dung và hình thức theo chuẩn mực, tuy nhiên ứng với nhiều cấp độ chuyên môn mà có khung nhìn khác nhau, nhưng nhìn chung hiện tại một số hồ sơ kế toán khách hàng chúng ta chưa tốt, thậm chí một số bạn kiểm toán còn hí hoáy và chỉ trích các lỗi mà mình vừa tìm được, điều này có thể làm cho người phụ trách kế toán (Cty khách hàng hoặc dịch vụ) không vui vẻ, cảm thấy “quê” (nó là con dao hai lưỡi, có thể kích thích làm tốt hơn sau này, ngược lại cũng có thể giấu lỗi tinh vi hơn); có thể mô tả và lý giải một phần như sau:
– Để có 1 sản phẩm tốt điều kiện cần và đủ là phải có nguyên liệu đầu vào tốt và bộ máy chế biến tốt. Bộ máy chế biến chính là dịch vụ kế toán của chúng ta, hiện tại có thể tốt hoặc xấu; nhưng bản thân chủ trương và cách hành xử của khách hàng chưa tốt thì đương nhiên gây khó khăn cho cả kế toán và kiểm toán;
– Nếu khách hàng đã tổ chức ngăn nắp và bài bản, có lẽ họ không phải tốn thêm khoản phí dịch vụ kế toán; và nếu có đi nữa thì đòi hỏi chất lượng cao, kéo theo số lượng không nhiều;
– Khách hàng đôi khi lạm dụng hợp đồng kế toán, dễ gây ngộ nhận về trách nhiệm hai bên;
– Nhân viên kế toán chưa chủ động trong quá trình tác nghiệp;
– Nhân viên kế toán còn mang lý luận về thuế để chống đỡ chuẩn mực kế toán. Trong khi chuẩn mực kế toán chính là nguyên tắc cơ bản để thực hiện ghi sổ kế toán theo chế độ, do là nguyên tắc cho nên sự thấu đáo ở mỗi người có khác nhau.
Hoạt động kiểm toán có pháp luật điều chỉnh riêng, trong đó một số áp lực nặng nề như: Tuân thủ pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp và báo cáo kiểm toán; Thực hiện kiểm toán, soát xét hồ sơ kiểm toán hoặc ký báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm về báo cáo kiểm toán và hoạt động kiểm toán của mình; Kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán.
Hãy nhìn, Bộ phận khách hàng
Do bất đồng ngôn ngữ, khó diễn đạt mà thông thường người làm phiên dịch rất khổ sở khi nhận thông tin 1 chiều phàn nàn từ phía khách hàng, chưa kịp đối chiếu với ai.
Các bạn phải nhận thông tin từ nhiều phía: khách hàng, người thực hiện dịch vụ kế toán, dịch vụ kiểm toán, hành chính- kế toán… từ đó trộn và chọn lọc để đưa ra thông tin xác đáng nhất.
Hãy nhìn, Bộ phận quản lý
Luật đầu tư lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam năm 1987- còn quá mới mẻ, bắt đầu cho giai đoạn “đổi mới tư duy”, mở cửa, kêu gọi đầu tư.
Năm 1996 Luật đầu tư “phiên bản” thứ 2 ra đời thì “đùng một cái” khủng hoảng kinh tế châu Á xuất hiện (năm 1997) ảnh hưởng khá nặng nề cho khu vực, gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư.
Năm 2000 Luật đầu tư “phiên bản” thứ 3 ra đời, lúc này thực sự khởi sắc, rất nhiều nội dung trong các danh mục ưu đãi đầu tư.
Các khách hàng Đài Loan và Trung Quốc- với lợi thế về mặt vị trí địa lý đã ồ ạt sang Việt Nam đầu tư, mô hình còn mang tính gia đình và ngành nghề với công nghệ chưa cao. Trong khoảng thời gian dài mở cửa thiếu chọn lọc, thiếu cơ chế ngăn chặn nên xảy ra nhiều trường hợp thất thu cho ngân sách (chủ yếu là chuyển giá và khai thuế không đầy đủ); hơn nữa có tác động bởi yếu tố tiêu cực xã hội, dẫn đến khách hàng còn lờ mờ chưa biết đâu là chân lý, đâu là pháp luật phải tuân thủ,… gây khó khăn trong quá trình hành nghề của chúng ta.
Khách hàng chưa phân biệt đâu là dịch vụ về thuế, dịch vụ kế toán, dịch vụ kiểm toán. Trong khi đó 3 dịch vụ này tương ứng có 3 luật định và cơ chế thi hành khác nhau, họ có sự nhầm lẫn trong hợp đồng dịch vụ…
TruongThanhGiang (tháng 6/2011)