Đặt vấn đề
Trong bối cảnh kinh tế, phá sản doanh nghiệp từ lâu đã bị xem là một điều tồi tệ, một dấu chấm hết cho hành trình kinh doanh. Tâm lý này đã tạo ra những phản ứng tiêu cực dây chuyền, khiến các chủ đầu tư sợ hãi và các đối tác mất niềm tin. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp khi đối mặt với khó khăn tài chính đã chọn cách giải thể thay vì tiến hành thủ tục phá sản, một phần vì e ngại tai tiếng và các hệ quả pháp lý đi kèm. Tuy nhiên, bài viết này đưa ra một lập luận khác: đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận phá sản không phải là sự thất bại hoàn toàn, mà là một phần bình thường của chu kỳ kinh doanh. Phá sản nên được xem như một thủ tục pháp lý cần thiết để doanh nghiệp sắp xếp, tái cấu trúc lại hoạt động , và là một cơ hội để phục hồi và vươn lên mạnh mẽ hơn.
Vấn đề phá sản doanh nghiệp (từ trước tới nay)
Có nhiều lý do, mà khi nghe đến phá sản thì người ta sợ. Đối với chủ nợ, xem như bị mất tài sản, không thể thu hồi được; đối với doanh nghiệp bị phá sản thì vừa bị tai tiếng, vừa chịu những hậu quả pháp lý nhất định, mà khiến cho nhà đầu tư mất nhiều cơ hội kinh doanh khác: được đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào[1], cũng như không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn 03 năm kể từ ngày Toà án nhân dân có quyết định tuyên bố phá sản[2].
Ngoài ra, còn tâm lý e ngại khi phải làm việc với cơ quan tòa án, vì người ta hiểu đó là nơi xét xử, là cơ quan của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền tư pháp. Còn khi làm việc với cơ quan đăng ký doanh nghiệp thì tâm lý nhẹ nhàng hơn, vì được hiểu thủ tục hành chính.
Theo quan sát của tác giả trong hơn 20 năm hành nghề kế toán, thì hầu hết doanh nghiệp thoát khỏi thị trường dù chủ quan hay khách quan, vẫn chọn thủ tục giải thể. Mặc dù điều kiện giải thể doanh nghiệp nó khác, thậm chí ngược với điều kiện yêu cầu tuyên bố phá sản- đó là Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ, nghĩa vụ tài sản khác.[3]
Bỏ qua các yếu tố về mặt thủ tục, thì trong thâm tâm của những người chủ đầu tư, người quản lý doanh nghiệp vẫn cố tình né tránh lâm vào tình trạng phá sản. Theo luật phá sản năm 2004 thì xác định: Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản. Khi đó chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ. [4] Mặc dù đây chỉ là hình thức xuất phát từ sự đánh giá, cảm nhận chủ quan từ chủ nợ, chưa xét đến giá trị nợ, tỷ trọng nợ hoặc thời gian nợ…điều này dẫn đến tiêu cực nhất định về quan hệ xã hội và quan hệ kinh tế, người ta nhìn nhận doanh nghiệp mắc nợ ấy như đang trong tình trạng “chết chưa chôn”.
Đến luật phá sản năm 2014, có giải thích từ ngữ tại Điều 4: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”. Điều này có ý nghĩa nhất định trong quan hệ kinh tế và tài chính, nó cho phép người ta có thời gian để chuẩn bị, có thời gian để thẩm định và xác nhận. Bởi lẽ, không thực hiện nghĩa vụ thanh toán có thể xuất phát từ sự chủ quan của doanh nghiệp, do thực hiện kế hoạch ưu tiên nào khác, hoặc gặp phải sự cố bất ngờ không mong muốn. Do vậy, với thời hạn quy định như trên, đủ để quyết định những vấn đề có liên quan, trong đó có phá sản.
Tuy nhiên, ở đây vẫn còn sự nhầm lẫn giữa hai khái niệm: (1) là việc không thực hiện một nghĩa vụ tài chính cụ thể theo giao kết hợp đồng, và (2) là tình trạng mất khả năng thanh toán thực sự xét trên toàn bộ sức khỏe tài chính của doanh nghiệp. Luật định đang dùng một biểu hiện đơn lẻ (không trả nợ trong 03 tháng) để kết luận cho một tình trạng tổng thể. Do đó, việc xác định doanh nghiệp có thực sự lâm vào phá sản hay không còn mơ hồ, vì nó chưa phản ánh được đầy đủ các yếu tố khách quan và chủ quan đằng sau hành vi không trả nợ đó.
Một cách nhìn về phá sản doanh nghiệp
Với tinh thần nhân văn, tương hỗ nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh, cùng có lợi. Chúng ta nên cảm nhận sự khó khăn và mất định hướng của người quản lý doanh nghiệp; và như thế, cần có những cơ chế mới, nhằm chuyển hướng cách nhìn tích cực hơn. Đó là, xem thủ tục phá sản như là một cách thức để sắp xếp lại doanh nghiệp, chứ không phải thủ tục phân chia tài sản cho các chủ nợ và chấm dứt hoạt động, thoát khỏi thị trường. Đó không phải là một sự thất bại hoàn toàn, mà chỉ là một phần bình thường của chu kỳ kinh doanh; các doanh nghiệp có thể phá sản do nhiều nguyên nhân khác nhau, chứ không chỉ thiếu nợ (chẳng hạn như dịch covid, suy thoái kinh tế, cạnh tranh khốc liệt, sai lầm trong quản lý hoặc các yếu tố bên ngoài khác…) Do vậy, nó không có gì bị coi là một sự xấu hổ và thất bại; ngược lại, cần được khuyến khích xem xét phá sản như một giải pháp khả thi thay vì cố gắng duy trì hoạt động kinh doanh không bền vững như trước đây. Vấn đề tái cấu trúc trở nên cần thiết và cần xây dựng hoàn thiện. Cụ thể:
-Hệ thống pháp luật về phá sản cần được cải thiện để đảm bảo rằng các doanh nghiệp được đối xử công bằng và có cơ hội tái cấu trúc.
-Cần có các quy định rõ ràng về các thủ tục phá sản và các quyền lợi của các bên liên quan.
-Các tổ chức tài chính và chính phủ cần cung cấp sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp đang gặp khó khăn tài chính.
-Sự hỗ trợ này có thể bao gồm các khoản vay, cho vay lại hoặc các chương trình đào tạo và tư vấn.
Từ đây, chúng ta sẽ nhìn nhận phá sản như là một cơ hội để tái cấu trúc và phục hồi; trong đó có tái cấu trúc về nợ nần, giảm chi phí và tập trung vào các hoạt động cốt lõi. Điều này có thể giúp các doanh nghiệp phục hồi và tiếp tục hoạt động kinh doanh được thuận lợi hơn.
Theo thống kê về đăng ký doanh nghiệp năm 2024: có số doanh nghiệp thành lập mới là 147.244; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 19.263; số doanh nghiệp gặp khó khăn, tạm ngừng hoạt động chưa có số liệu. [5]
Theo quan sát tình hình thực tế cho thấy, rất khó thống kê số lượng doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh hoặc rút khỏi thị trường, vì doanh nghiệp không cung cấp thông tin hoặc không thực hiện các thủ tục liên quan theo quy định. Tuy nhiên, theo một bài viết trên cổng thông tin điện tử thì được biết về tình hình tạm ngừng kinh doanh, rút lui khỏi thị trường: đến quý III năm 2024, có 17.353 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể; số doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể là 38.680 doanh nghiệp. [6]
Đối với doanh nghiệp thực hiện thủ tục phá sản thì chưa được công bố công khai; tuy nhiên, theo nội dung bản dự thảo Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2014 thì:
Tính từ ngày 1.1.2015 đến hết tháng 9.2023, các tòa án nhân dân đã thụ lý 1.510 vụ việc phá sản. Phân tích số liệu cho thấy lượng vụ việc tăng nhiều qua các năm, tập trung hơn ở các tòa án nhân dân cấp huyện, nhưng không đồng đều giữa các tỉnh. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố có kinh tế phát triển như Bình Dương, TP.HCM, Hà Nội, Đồng Nai… Thực tế, có vụ việc phá sản bị kéo dài 10 năm, thậm chí 16 năm đến nay vẫn đang thi hành. Trong khi đó, vụ việc phá sản giải quyết nhanh nhất là 1 tháng do doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán, không còn tiền, tài sản để thực hiện phương án phân chia tài sản. [7]
Về kinh nghiệm quốc tế, đối với những nước đang xử lý tốt vấn đề này, pháp luật về phá sản có 5 xu hướng điển hình sau đây: Tạo cơ chế khuyến khích phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; Đề cao vai trò và trách nhiệm của Quản tài viên; Tập trung hóa và chuyên môn hóa giải quyết phá sản; Áp dụng thủ tục giản lược trong một số trường hợp; Khuyến khích thương lượng, hòa giải trong giải quyết phá sản. [8]
Vấn đề đặt ra, là làm sao cho phía các chủ nợ không còn e ngại trong việc chấp thuận phương án phục hồi do lo ngại rủi ro, không còn thiếu tin tưởng vào khả năng phục hồi của doanh nghiệp; còn phía người lao động thì không còn sợ thiếu thông tin về phục hồi doanh nghiệp và sự tham gia vào quá trình phục hồi doanh nghiệp. Muốn vậy, chúng ta hãy hướng đến mục tiêu và xem thủ tục phục hồi chính là sự kết hợp giữa hoạt động kinh tế và hoạt động tư pháp; cùng nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về thủ tục phục hồi.[9]
Trong Luật Phá sản năm 2014 quy định thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là một giai đoạn nằm trong thủ tục phá sản (điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh toán các khoản nợ). Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh hầu như không được áp dụng. Theo thống kê, trong gần 09 năm thi hành Luật Phá sản năm 2014, toàn quốc có chưa đến 10 vụ việc áp dụng thủ tục phục hồi.[10] Đây có lẽ do sự nhìn nhận của chúng ta về vấn đề phá sản trong thời gian qua, tác động chưa tốt cho nền kinh tế, cũng như vai trò mờ nhạt trong việc khôi phục và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Việc lập ra kế hoạch hoạt động kinh doanh mới, định giá tài sản, quản lý tài sản theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp, quản tài viên chuyên trách- có chuyên môn cao, có vai trò cao… không chỉ giúp cho doanh nghiệp đang bị khó khăn được giải thoát, mà còn góp phần tạo nền tảng cho các doanh nghiệp khác tham khảo khi nằm trong hoàn cảnh hoặc tính chất tương tự; người ta có thể tự điều chỉnh con đường đi trước khi đến gần hoặc gặp phải chướng ngại vật phía trước.[11] Ngược lại, lỡ không may, vướng vào hoàn cảnh khó khăn, thì hãy nhẹ tay cứu vớt, như là cách ứng xử của pháp luật phá sản của Pháp và Nhật Bản. Tức là người ta luôn khuyến khích sự sống sót của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản (Pháp cho phép doanh nghiệp nộp đơn xin tái cấu trúc tài chính; còn Nhật Bản cho phép doanh nghiệp tiếp tục hoạt động trong một thời gian nhất định sau khi tuyên bố phá sản).[12]
Ở một góc nhìn khác, nên khuyến khích hoạt động thương lượng của các chủ nợ, tham gia vào quá trình thương lượng với doanh nghiệp đang khó khăn. Điều này sẽ giúp tìm ra các giải pháp tối ưu, đảm bảo tính công bằng cho các bên liên quan và thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Về phía doanh nghiệp đang khó khăn cần chủ động nhìn nhận lại hoạt động kinh doanh của mình, và sẵn sàng chấp nhận sự kiện “phá sản” như là “cú hích” để định dạng lại mô hình hoạt động, chiến lược kinh doanh; tái cấu trúc bộ máy quản lý, điều chỉnh chi phí; thậm chí tìm kiếm nhà đầu tư mới để hỗ trợ tài chính và tái cấu trúc doanh nghiệp,… hướng tới hiệu quả hoạt động của mình.
Tóm lại, việc thay đổi cách nhìn về phá sản doanh nghiệp không chỉ là một đề xuất mang tính nhân văn mà còn là một yêu cầu cấp thiết cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Phá sản không nhất thiết là một thất bại tuyệt đối; ngược lại, nó có thể là “cú hích” để doanh nghiệp định hình lại chiến lược, tái cấu trúc bộ máy và vươn lên mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, để quá trình này thực sự trở thành một cơ hội phục hồi, cần có sự chung tay của nhiều bên liên quan. Điều này đòi hỏi một hệ thống pháp luật về phá sản hoàn thiện hơn, khuyến khích tái cấu trúc và hòa giải; sự hỗ trợ tích cực từ các tổ chức tài chính và cơ quan nhà nước; và quan trọng hơn hết là sự thay đổi trong nhận thức của chính cộng đồng doanh nghiệp, các chủ nợ và nhà đầu tư. Việc xem thủ tục phá sản như một sự kết hợp giữa hoạt động kinh tế và tư pháp sẽ mở ra con đường sống cho các doanh nghiệp gặp khó khăn, góp phần tạo nên một môi trường kinh doanh linh hoạt và có khả năng phục hồi cao hơn./.
(13-10-2025)
[1] Khoản 1 Điều 130 Luật phá sản năm 2014
[2] Khoản 3 Điều 130 Luật phá sản năm 2014
[3] Khoản 2 Điều 207 Luật doanh nghiệp năm 2020
[4] Khoản 1 Điều 13 Luật phá sản năm 2004
[5] Số liệu thống kê về đăng ký doanh nghiệp năm 2024; Trang điện tử Bộ kế hoạch đầu tư, https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/solieudoanhnghiep.aspx; ngày truy cập 2-1-2025
[6] Nguyễn Việt Hà; (18/12/2024); “Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp việt nam năm 2024”, Cổng thông tin điện tử quốc gia, https://pbgdpl.gov.vn/Pages/tin-tuc-hd-pbpl.aspx?ItemID=4996&l=HoatdongPBGDPLotrun; truy cập ngày 2-1-2025
[7] Tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2014; (1-9-2024); Trang điện tử tòa án nhân dân tối cao, https://vbpq.toaan.gov.vn/webcenter/ShowProperty?nodeId=/UCMServer/TAND341372
[8] Xây dựng thủ tục tố tụng điện tử giải quyết vụ việc phá sản; (11/12/2024); Cổng thông tin điện tử tòa án nhân dân tối cao, https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-tin?dDocName=TAND349326; truy cập ngày 2-1-2025
[9] Trần Thị Thu Hà; (2019); “Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản Việt Nam”, Luận án tiến sỹ
[10] Uyên Nhi; (20/11/2024), Tạp chí dân chủ và pháp luật, https://danchuphapluat.vn/xay-dung-luat-pha-san-sua-doi-phai-ho-tro-cuu-doanh-nghiep-thoat-khoi-tinh-trang-pha-san-gop-phan-phuc-hoi-phat-trien-kinh-te-dat-nuoc; truy cập ngày 2-1-2025
[11] Bích Lan; (26/05/2023); “Việt Nam có thể học hỏi, rút kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới”, Cổng thông tin điện tử Quốc hội, https://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=76251; truy cập ngày 2-1-2025
[12] Trần Trọng Đại; (20/08/2023); “Kinh nghiệm của một số nước về phá sản doanh nghiệp”, Tạp chí công thương, https://tapchicongthuong.vn/kinh-nghiem-cua-mot-so-nuoc-ve-pha-san-doanh-nghiep-tham-khao-cho-viet-nam-109133.htm; truy cập ngày 2-1-2025
Phá sản là đường cùng, sao bắt doanh nghiệp lo chi phí phá sản?
https://www.nguoiduatin.vn/dbqh-pha-san-la-duong-cung-sao-bat-doanh-nghiep-lo-chi-phi-pha-san-204251023115050009.htm?fbclid=IwdGRjcANnuOBleHRuA2FlbQIxMQABHhWJ9avFERvXoTrMv9igUUPO5p1GgVifoctMOPSQFxV4blOYUyFNS2_QJ4Wt_aem_x3hbBOxY4N4VNxQocjO_xw&gidzl=XxDnEFC4t7U4hNKyz1lUS8EgSZxh5TfqbFTsCB4MtosLeY5Wjn6BVSIl93NdIOWgnVycRcL6XvXyy0ROTW